Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Văn họcBình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Ngày đăng:

0
(0)

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm hay nhất, lay động trái tim của nhiều độc giả nhất của tác giả Hàn Mặc Tử. Hãy cùng DINHNGHIA.COM.VN bình giảng Đây thôn Vĩ Dạ qua bài viết dưới đây nhé!

Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử – Bài làm 1

Hàn Mặc Tử là một gương mặt thơ kì lạ và kì diệu, có cuộc sống ngắn ngủi đầy đau thương, bất hạnh. Là người rất yêu đời, yêu cuộc sống nhưng tiếc thay, tạo hóa lại quá bất công với số phận của thi nhân. Vì thế mà những mối tình trong thơ ông dù đẹp đẽ, nồng thắm đến đâu thì cuối cùng cũng chia lìa, tan vỡ.

Sau khi lâm trọng bệnh, biết rằng chẳng bao giờ còn được đoàn tụ với người mình yêu nên thi sĩ thường miêu tả cảnh gặp gỡ, nhớ nhung trong những giấc chiêm bao. Vì thường xuyên bị cái chết ám ảnh nên ông hay nói đến sự vĩnh biệt, cõi hư vô.

Ông thích đêm tối, sương mù, trăng sao… là những cảnh hợp với tâm trạng ảm đạm, thê lương. Nỗi đau thể xác khiến Hàn Mặc Tử nhiều khi như điên như dại nhưng cũng có lúc nó nâng thần trí ông lên đến đỉnh cao của tưởng tượng huyễn hoặc, đưa ông vào thế giới tràn đầy âm thanh, ánh sáng, sắc màu.

Trong cõi riêng ấy, ông thỏa sức biểu hiện niềm đam mê khao khát tình yêu và cuộc sống tươi đẹp vĩnh hằng.

Thơ Hàn Mặc Tử thường có những bước nhảy đột ngột về ý. Ý nọ cách ý kia một khoảng lớn, có lúc tưởng chừng như không liên kết gì với nhau nhưng thực ra lại gắn bó rất chặt chẽ ở các trạng thái của cảm xúc. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một ví dụ.

Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nổi tiếng, được coi là viên ngọc quý trong thơ ca Việt Nam. Bài thơ thể hiện lòng yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt của thi sĩ, thể hiện qua tình cảm thiết tha đối với cảnh vật và con người.

Dẫu có thoáng nét ngậm ngủi và sự chia lìa, tan vỡ của tình yêu song cảm xúc ấy đã thăng hoa, làm giàu thêm đời sông tình cảm của con người. Có thể coi bài thơ là lời tỏ tình với cuộc đời của một trái tim yêu thương và luôn luôn hy vọng.

Bài thơ có ba khổ. Khổ thứ nhất tả vẻ đẹp của vườn cây thôn Vĩ và thi sĩ gửi gắm ước mong một ngày nào đó dược trở về thăm cảnh cũ người xưa.

Khổ thứ hai tả cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo: gió, mây, dòng nước, hoa bắp tay… trong không gian quạnh vắng, đìu hiu. Nét thực nét ảo cứ chập chờn chuyển hóa.

Khung cảnh thấm đẫm nỗi buồn thương, giống như tâm trạng đang chới với, lo âu, nghẹn ngào của thi sĩ trước linh cảm tan vỡ, chia lìa của tình yêu.

Khổ thứ ba nói về hình ảnh khách đường xa và chốn sương khói mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Dẫu có hình ảnh của khách đường xa, áo trắng… nhưng tất cả đều nhạt nhòa, vô định như một mối tình vừa mới định hình đã vội hóa thành hư vô, đọng lại trong lòng người một nỗi hoài nghi, hi vọng.

Âm điệu chủ đạo của bài thơ dựa trên ba câu tự vấn đầy băn khoăn, khắc khoải. Câu hỏi thứ nhất: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? mang nhiều sắc thái như: vừa hỏi han, vừa hờn trách, vừa nhắc nhở, vừa mời mọc.

Tác giả đang phân vân tự hỏi về một việc đáng ra phải làm từ lâu mà giờ đây không biết có còn cơ hội để thực hiện nữa không. Đó là về lại thôn Vĩ, nơi mình từng lui tới hồi còn là học sinh trường Pellerin ở Huế.

Sự phân vân và những sắc thái tâm trạng khác nhau đan xen trong cùng một câu hỏi cho ta thấy nỗi ước ao trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt vừa u uẩn, không dễ gì bày tỏ. Nghĩa là ao ước đấy, song cũng đầy mặc cảm về khả năng thực hiện ao ước của mình.

Câu hỏi thứ hai: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay ? thể hiện sự băn khoăn, khắc khoải và hi vọng mong manh trong tâm trạng thi sĩ.

Câu hỏi thứ ba: Ai biết tình ai có đậm đà? chất chứa một mối hoài nghi.

Tâm trạng của thi sĩ diễn biến theo chiều hướng: ao ước đắm say – hoài vọng phấp phỏng – mơ tưởng hoài nghi. Càng về sau càng có phần u uẩn và sầu muộn.

Đó là những cung bậc khác nhau của một mối tình vô vọng. Tuy nhiên, đằng sau mối tình ấy vẫn là một niềm thiết tha gắn bó với đời.

Những câu hỏi này là hình thức để nhà thơ tỏ bày tâm trạng. Âm điệu bài thơ càng về sau càng da diết, sâu lắng và nhờ đó mà ba khổ thơ tưởng như tách biệt lại liên kết với nhau một cách tự nhiên, tạo thành một bài thơ hoàn chỉnh có vẻ đẹp khác thường.

Câu thơ mở đầu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? chứa đựng nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau. Nó có thể là lời mời mọc dưới dạng hờn trách nhẹ nhàng, rất đáng yêu của một cô gái Huế.

Nếu vậy thì phải nghe câu thơ ấy cất lên bằng chính cái giọng Huế ấm áp, ngân nga, ta mới cảm nhận được hết vị dịu ngọt đến nao lòng của nó. Hiểu cách khác, nó là một câu hỏi tu từ.

Nhà thơ lòng tự hỏi lòng: Liệu có còn dịp nào mình được về thăm thôn Vĩ mảnh đất gắn bó với bao kỉ niệm dấu yêu của mối tình đầu? Tự hỏi cũng là để nhắc nhỏ mình và kín đáo lồng vào trong đó nỗi khát khao, nhung nhớ.

Ba câu sau tả vẻ đẹp vườn cây thôn Vĩ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Bức tranh chỉ đơn sơ vài nét chấm phá nhưng sinh động và đặc sắc vô cùng! Đây là cảnh hiện ra trong cõi nhớ nên vẻ đẹp của nó trở nên lung linh gấp bội. Mỗi câu thơ tả một cảnh vườn.

Ánh nắng ban mai trong trẻo, tinh khiết phơn phớt hồng trên những tán cau xanh cao vút, in dáng trên nền trời buổi bình minh. Thi sĩ miêu tả hàng cau trước nhất bởi đó là hình ảnh nổi bật, là điểm nhấn của bức tranh phong cảnh rất ấn tượng.

Tưởng như hàng cau kia đang thay ai ngóng đợi người về. Hình ảnh hàng cau gợi trong ta một nỗi niềm làng mạc, quê hương sâu sắc.

Câu thơ tiếp theo thề hiện cảm xúc ngỡ ngàng và thán phục của nhà thơ trước vẻ đẹp tràn đầy sức sống của khu vườn: vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Đây cũng là lời nhận xét chân tình thốt lên tự đáy lòng thi sĩ.

Thi sĩ không tả cụ thể cảnh vườn mà chỉ nhắc tới sắc xanh của lá. Mướt là màu xanh mỡ màng, non tươi, phơi phới xuân thì, nhìn mát mắt và mát tận tâm hồn. Từ quá chỉ mức độ làm tăng thêm khả năng gợi tả của câu thơ.

Cái sắc nắng mới lên rọi xuống những vòm lá còn ướt sương đêm khiến cho màu xanh của lá ánh lên như ngọc. Vườn cây thôn Vĩ như một viên ngọc bích khổng lồ rời rợi sắc xanh, tỏa vào không gian và lòng người cái sắc màu quyến rũ lạ lùng!

Tất cả đều rạo rực, tràn đầy sức sống. Tưởng chừng như nghe thấy được cả tiếng của nhựa sống đang chuyển lên cành tơ, lá nõn. Trước cảnh thiên nhiên tuyệt vời ấy, tâm hồn con người cũng rạo rực, vui tươi.

Câu thơ thứ tư là nét vẽ thân tình tô đậm vẻ e ấp, dịu dàng rất đáng yêu của người con gái Huế: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Thấp thoáng sau lá trúc là khuôn mặt chữ điền phúc hậu.

Ở đây, ta thấy sự tinh tế của ngòi bút Hàn Mặc Tử khi tả cảnh, tả người: Lá trúc che ngang làm tăng thêm vẻ duyên dáng của gương mặt chữ điền.

Với câu thơ này, Hàn Mặc Tử đã thể hiện được thần thái của thôn Vĩ: cảnh tươi đẹp và con người duyên dáng. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau tạo thành vẻ đẹp đặc trưng của Huế.

Bức tranh thôn Vĩ tuyệt đẹp đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng thi sĩ. Trên cái nền phong cảnh đầy hương sắc ấy có một cuộc hội ngộ tuy không nói ra mà niềm vui như thấm vào vạn vật. Thoảng đâu đây tiếng thì thầm mơ hồ xao xuyến của tình yêu.

Khổ thơ thứ hai vẫn tiếp tục tả cảnh nhưng hầu như không ăn nhập gì với khung cảnh tươi vui ở khổ thơ đầu. Cảm xúc thơ chợt lắng xuống, đượm buồn. Linh cảm chia lìa hiện ra trong từng câu, từng chữ và từng hình ảnh:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Thông thường thì gió thổi, mây bay theo cùng một hướng. Còn ở đây, gió, mây đôi ngả. Gió ở cây lá, còn mây lãng đãng tận trên cao. Ngẫu nhiên chăng hay dụng ý?

Câu thơ ngắt làm đôi. Gió đóng khung trong gió (Gió theo lối gió), mây cuộn trong mây (mây đường mây). Mạch thơ chợt như đứt đoạn. Có cái gì đó xót xa, nghẹn ngào, hụt hẫng trong cảm xúc của nhà thơ.

Ở Vĩ Dạ, bước ra sau vườn đã là bến nước với dăm ba bậc dẫn xuống sông. Dòng nước sông Hương lặng lẽ, im lìm, buồn thiu như không muốn trôi. Hoa bắp (ngô) vật vờ, lắt lay trong gió nhẹ. Đâu đâu cũng đượm một nỗi buồn.

Khung cảnh thật vậy chăng? Đúng vậy! Trên kia thật mà ở đây cũng thật, bởi tươi tắn hay ủ ê cũng đều là Huế cả. vườn tươi sớm mai, sông ủ buổi chiều.

Nỗi buồn phơn phớt, nhè nhẹ mà thấm tận đáy lòng. Nét trầm tư không nơi nào có được ấy là đặc trưng của Huế. Bức tranh phong cảnh thứ hai này có đủ gió thổi, mây bay, dòng nước trôi, hoa bắp lay… mà sao vắng lặng đến lạnh lùng.

Đường như tất cả đang phai nhạt dần sự sống, đang bị vây bọc trong một mối sầu thương. Sự ngang trái, trớ trêu ẩn chứa trong cảnh vật hay vui buồn là do con mắt nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ? Nỗi buồn của thiên nhiên có liên quan gì đến nỗi buồn của con người hay không?

Trở lại mối tình của thi sĩ với cô gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình ấy tuy đẹp đẽ nhưng vô vọng. Duyên kiếp của đôi trai gái này là duyên kiếp lỡ làng, không thể chung đôi, chung đời được.

Vì vậy nỗi buồn trong lòng người như lan cả vào cỏ cây, mây nước; khiến cho dòng nước buồn thiu và hoa bắp cũng vật vờ, lay lắt, lảo đảo bên dòng nước im lìm. Dòng nước buồn thiu tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi sầu li tán, chia phôi của gió với mây đã lây buồn tới dòng sông?!

Lạ nhất là động từ lay vốn là một từ tả thực không mang ý nghĩa vui hay buồn, vậy mà sao đặt vào trong câu thơ này, nó lại gợi cảm xúc buồn đến vậy? Nó phụ họa với nỗi buồn chia cắt của gió, mây, của dòng nước buồn thiu như chẳng còn sức sống.

Trong cái xu thế đang chảy trôi, chia lìa mỗi lúc mỗi xa ấy, thi sĩ chợt ước ao có được một thứ ngược dòng về với mình, đó là trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nhà thơ nhìn thấy hay hình dung trong kí ức cảnh những con thuyền khoan thai, bồng bềnh trên mặt nước sông Hương lấp lánh ánh trăng ?!

Sự phân vân đoán định trong từ nghi vấn thuyền ai càng làm tăng thêm vẻ mơ hồ, huyển ảo cho cảnh vật và đặc tả một hồn thơ đang rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp hữu tình của Huế.

Nhà thơ ao ước thuyền chở trăng về như mong một tri âm tri ki đến với mình. Dòng nước hóa thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan ra thành nước?! Thuyền chở trăng về cập bến thời gian huyền ảo. S

ong, đó chi là bề nổi của ý thơ. Có một chữ tâu nay bị bỏ quên bởi lẽ nó khiêm nhường, không cầu kì hoa mĩ nhưng lại mang nhiều sắc thái tu từ, ấy là chữ lập. Chữ kịp chứa đựng bi kịch của tâm hồn thi sĩ.

Nó phản ánh tâm trạng khắc khoải đợi trông cùng chút hi vọng mong manh của nhà thơ đang chơi vơi trên bờ vực của đau thương, tuyệt vọng.

Chữ kịp cho ta thấy cảm nhận của thi sĩ về hiện tại ngắn ngủi và hé mở một khao khát sống cháy bỏng, muốn giao hòa, chia sẻ tâm sự với mọi người. Thi sĩ muốn níu kéo sự sống và chạy đua với thời gian.

Thuyền em đang đậu ở bến sông trăng như đời em sáng láng đầy xuân tươi, có chở trăng về kịp tối nay cho lòng anh vui lên một chút! Nỗi ước mong thầm lặng mà tha thiết. Tha thiết mà mong manh. Càng mong manh lại càng tha thiết.

Thuyền đậu, thuyền đi trên sông Hương trong đêm trăng là chuyện bình thường, nhưng bến sông trăng thì chi có trong thơ Hàn Mặc Tử. Thuyền chở trăng về kịp tối nay thì cuộc hẹn hò sẽ trọn vẹn.

Có rượu, có trăng, có những người yêu nhau thì đời đẹp biết bao! Bù lại cảnh tượng ngăn cách, buồn bã ở hai câu trên, đây là hi vọng của cuộc gặp gỡ hòa hợp mát lành, cho dù hi vọng ấy cũng chẳng khác chi sương khói.

Có chở trăng về kịp tối nay là câu thơ của cõi mộng. Đến đây, nhà thơ không nhìn ra cảnh vật nữa mà nhìn vào chính lòng mình. Quỹ thời gian đang vơi đi từng ngày, từng khắc, cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Thi sĩ rơi vào cõi đau thương, tuyệt vọng.

Bốn câu thơ khổ này là bức tranh tâm cảnh. Gió, mây chia đường, bạn tình rẽ đôi. Buồn đến cả dòng sông, ngọn bắp. Thuyền ai đó hay thuyền em mà sáng đầy trăng? Hãy chở trăng vê kịp tối nay để ta gặp nhau lần cuối. Nhưng đó chỉ là ước mong, dẫu chân thành tha thiết mà mờ ảo, mông lung.

Nếu ở khổ thứ hai, tâm trạng của nhà thơ là khắc khoải, đợi mong và bồn chồn hi vọng thì đến đoạn này, khi thả hồn mơ khách đường xa, nhà thơ mới thấy nỗi niềm chia lìa da diết hơn, thấm thìa hơn.

Nhà thơ lặng đi trong cõi mộng. Hình ảnh cô gái Huế hết sức gần gũi nhưng cũng hết sức xa vời. Xa vời về thời gian, không gian và nhà thơ linh cảm thấy mối tình giữa mình và cô gái ấy cũng đã thành hư ảo.

Gâu thơ trên đương còn là mơ, câu dưới đã bay vào ảo giác, một bước nhảy vọt rất Hàn Mặc Tử, khó tìm thấy ở những bài thơ tình khác…

Lời thơ ở hai câu này nghe như có gì thổn thức, nghẹn ngào, hụt hẫng, chới với, bẽ bàng và tội nghiệp biết bao cho lòng chàng trai!

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”

Trên là vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Hình ảnh này gợi cho ta nhớ tới gương mặt chữ điền có lá trúc che ngang không thể nào quên.

Đây là hình ảnh người con gái Huế có vẻ đẹp trinh khiết đầy xuân tình mà thi sĩ hằng yêu mến. Gắn với hình dáng ấy là sắc áo trắng tinh khôi. Màu áo ở đây cũng là màu áo trong tâm tưởng.

Tác giả hình dung trong tâm tưởng để thấy lại cái màu trắng của kí ức, cho nên nó hư hư thực thực. Câu thơ đầy ảo giác nhưng rất hay, rất có lí và bất ngờ: Áo em trắng quá nhìn không ra.

Màu trắng giờ đang choán hết tâm tư, tình cảm của thi nhân. Bài thơ tả cảnh đã thành bài thơ thổ lộ tình yêu. Một thứ tình yêu đơn phương, thiết tha và có phần tội nghiệp:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hai câu thờ cuối dẫn ta vào cõi hoài niệm của nhà thơ. Sương khói làm mờ nhân ảnh không phải là sương khói ngoài đời mà là sương khói trong mối tình đương nhen nơi lòng thi sĩ, là cái khoảnh khắc nhà thơ đắm đuối trong cơn mộng tưởng.

Đâu còn nắng hàng cau, vườn mướt quả Đâu còn xanh như ngọc, mặt chữ điền Cũng chẳng còn gió mây, dòng nước buồn, hoa bắp lay, sông trăng và con thuyền chở trăng về… Chỉ còn sương khói che khuất bóng người.

Không chỉ hình bóng em mờ mà thân xác anh cũng mờ tan trong sương khói lạnh lẽo. Còn lại may có chữ tình, nhưng nhà thơ vẫn băn khoăn, khắc khoải: Ai biết tình ai có đậm đà ?

Hai khổ thơ đầu nói đến cái đẹp của xứ Huế, khổ cuối nói vẻ đẹp của cô gái Huế. Tả cảnh đẹp xứ Huế, Hàn Mặc Tử đắm say đến mức hòa nhập vào cảnh.

Nói đến vẻ đẹp của cô gái Huế, nhà thơ lại lùi ra xa, giữa nhà thơ với cô gái là một khoảng cách mịt mờ sương khói. Vì thế mới có câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời : Ai biết tình ai có đậm đà ?

Nhà thơ đã sử dụng rất tài tình đại từ phiếm chi Ai để mở ra hai ý nghĩa của câu thơ: Làm sao biết được tình người con gái thôn Vĩ có đậm đà không? Hay cũng mờ ảo, chóng tan như làn sương khói kia?

Người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ đối với cảnh vật Huế, con người Huế hết sức thắm thiết, đậm đà ? Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chi làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.

Khổ thơ thứ ba tiếp nối và đi sâu vào bên trong mối tình, từ nỗi cách ngăn gió mảy chia đường đến sự đứt gãy. Từ cảnh thiên nhiên như reo vui, tràn đầy sức sống ở khổ thơ thứ nhất đi dần tới sự xóa nhòa tất cả vào mơ, vào sương khói ở khổ thứ ba.

Một mối tình hết sức thiết tha, nồng ấm nhưng đành để nó mất hút vào cõi mông lung, mờ mịt; chỉ còn lại dư vị đậm đà trong lòng người và cả lòng mình.

Bài thơ bắt đầu bằng điệu vui tươi nhưng kết thúc lại buồn như vừa lỡ một cuộc hẹn hò. Có phải nội dung bài thơ chỉ giới hạn ở một nỗi đau cụ thể là mối tình lỡ làng của tác giả với một người con gái Huế ?

Nếu vậy, nó không tồn tại đến tận ngày nay. Cũng không phải nó nói giùm niềm đau của ngàn vạn chàng trai không may trong trường tình.

Gốc rễ sâu xa của nỗi bẽ bàng trong bài thơ vượt ra khỏi khuôn khổ tình yêu của một đôi trai gái, mà nói lên tâm trạng chưa kịp vui đã thấy buồn, mới vừa ban mai mà đã vội chiều tà, bao ước mơ tốt đẹp tất thảy đều tuột khỏi tầm tay.

Đó là tâm trạng của tầng lớp trí thức trẻ 1930 – 1945 rất hào hứng tự khẳng định mình nhưng luôn bị những áp lực của xã hội phủ định, trong khi ánh sáng của cách mạng chưa soi rọi tới.

Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ về tình yêu. Thấp thoáng trong màn sương khói hư ảo của tình yêu đôi lứa là tình yêu thiết tha, đằm thắm đối với quê hương đất nước.

Vì khơi gợi và làm rung động tình cảm chung của nhiều người như thế nên bài thơ vốn diễn tả tâm trạng riêng của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn của nhiều thế hệ yêu thơ Hàn Mặc Tử.

Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử – Bài làm 2

Bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử được gợi cảm hứng từ một tấm bưu thiếp nhưng bài thơ không đơn thuần chỉ là lời vịnh cảnh, vịnh người mà đó là tiếng lòng đầy uẩn khúc của một tình yêu mãnh liệt nhưng vô vọng, một niềm khát khao sống, tha thiết, gắn bó với đời khi mà nhà thơ có nguy cơ phải sớm lìa xa cuộc đời.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh phong cảnh bình minh nơi thôn Vĩ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi như một lời trách móc nhẹ nhàng, lời mời gọi tha thiết đối với nhà thơ.

Câu thơ có thể hiểu theo hai cách, trước hết có thể hiểu đó là lới của cô gái thôn Vĩ hướng tới thi sĩ nhưng cũng có thể hiểu đó là lời nhà thơ tự trách mình, cũng là ước mơ thầm kín của người đi xa mong được trở về thăm chốn xưa.

Trong câu thơ tác giả dùng tư “chơi” một cách thân mật khác hẳn từ “về thăm” mang tính chất xã giao, cách dùng từ ấy phù hợp với một lời mời chân tình, gần gũi. Câu hỏi sẽ là duyên cơ để khơi dậy trong lòng nhà thơ biết bao kỉ niệm sâu sắc, hình ảnh đẹp đẽ về xứ Huế, về thôn Vĩ.

Từ câu hỏi tác giả mở ra một cảnh thật đẹp, thật trong sáng về cảnh thôn quê. Hình ảnh của “nắng vườn cau” và những vườn xanh mướt nơi thôn Vĩ gợi lên sự tinh khôi, tinh khiết.

Trong thơ của Hàn Mạc Tử thường miêu tả nhiều nắng, ví như bài “Mùa xuân chín”: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan… Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang”.

Ở mỗi câu thơ tác giả lại có sự phát hiện riêng về sắc màu của nắng ở những thời điểm khác nhau. Cái nhìn của tác giả chuyển dần xuống thấp hơn, quan sát cảnh vườn tươi đẹp bao quanh nhà tạo thành cấu trúc thẩm mĩ xinh xắn mà Xuân Diệu từng ví như một bức tranh tứ tuyệt tuyệt đẹp.

Từ “mướt quá” gợi vẻ đẹp tươi tốt, đầy sức sống của vườn cây thôn Vĩ, câu thơ như một lời cảm thán gợi sắc thái ngợi ca. Phép so sánh “xanh như ngọc” là một so sánh đẹp gợi hình ảnh những chiếc lá xanh mướt dưới nắng sớm, sạch sẽ, láng bóng.

Qua những câu thơ ta còn nhận ra tình cảm của cả những người chăm sóc dành cho vườn cây. Phải là một người có tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, có ân, có tình đặc biệt tha thiết đậm đà với thôn Vũ mới lưu giữ được những hình ảnh sống động và đẹp đẽ đến thế.

Câu thơ cuối “ Lá trúc che ngang mặt chữ điền” có sự xuất hiện của con người làm cho cảnh vật thêm ấm áp, sinh động hơn. Sự xuất hiện ấy cũng rất tế nhị, kín đáo, phù hợp với bản tính nhẹ nhàng của người xứ Huế.

Thấp thoáng sau lá trúc là khuôn mặt chữ điền – khuôn mặt cương trực, phúc hậu, thẳng thắn. Tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người cụ thể mà chỉ ghi lại một chi tiết, một nét trong vẻ đẹp tâm hồn, tính cách thông qua khuôn mặt.

Tiếp sau bức tranh vườn tược, khổ thơ thứ hai của bài thơ miêu tả bức tranh sông nước xứ Huế.

“Gió đi lối gió, mây đường mây
Mặt nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”’

Hai câu thơ đầu, khi quan sát cảnh vật thiên nhiên, nhà thơ nhận thấy mọi sự vật đang chia lìa, xa cách “gió đi lối gió, mây đường mây”. Về mặt tự nhiên, hình ảnh có vẻ rất vô lý vì gió mây thường bay cùng hướng không thể có sự ngược chiều.

Nhưng nỗi đau trong tâm trạng của nhà thơ đã chi phối cách nhìn cảnh vật, bản thân nhà thơ đang bị tách rời cuộc sống nên ông nhìn sự vật trong cái nhìn đầy mặc cảm – mặc ảm chia lìa.

Nỗi đau càng sâu sắc, càng cho ta thấy niềm khao khát sống của nhà thơ. Câu thơ được diễn tả theo logic tâm lý. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp nhân hóa để diễn tả được tình cảnh khác thường, không chỉ trong mây và gió mà còn trong cả dòng nước sông Hương “dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

Câu thơ diễn tả nhịp điệu êm đềm, khoan thai của xứ Huế, gió mây nhè nhẹ, dòng nước chảy hững hờ, cỏ cây khẽ đung đưa. Như vậy từ sự chia lìa của mây gió đã làm nên nỗi buồn cho tâm trạng hay cũng chính là nỗi buồn của thi nhân.

Cách ngắt nhịp 4/3, hình ảnh gắn với mỗi vế làm cho câu thơ như bị cắt đôi, cảnh vật cũng bị chia rẽ, chia lìa ngang trái.nếu ở hai câu thơ đầu hình ảnh còn mang tính chất thực thì sang hai câu thơ sau hình ảnh đã chuyển sang tính chất ảo.

Hình ảnh “sông trăng” chính là dòng nước, dòng ánh sáng. Hình ảnh con thuyền có thể là thật nhưng hình ảnh sông trăng và thuyền chở trăng lại mang tính chất ảo, lúc này dòng sông không còn là dòng nước nữa mà là trở thành dòng ánh sáng lấp lánh ánh trăng, tạo ra một không gian nghệ thuật hư ảo, mênh mang.

Chính vì thế, con thuyền cũng trở nên mộng tưởng, nó đậu trên sông trăng để chở trăng về một cõi mơ. Như vậy, nhà thơ đã phác họa ra một nét rất đẹp của sông Hương dưới ánh trăng, các hình ảnh được thi sĩ sử dung có tính chất bóng bẩy, gây chú ý cho người đọc, tạo nên một bầu không khí hư hư, thực thực, nét thực, nét ảo chuyển hóa một cách ảo mộng.

Đặt hình ảnh ánh trăng trong thế giới quan với các hình ảnh khác trong khổ thơ, nhà thơ có cảm giác mình đang bị bỏ quên ở bến bờ quên lãng, trong cô đơn thi nhân chỉ biết bấu víu vào trăng.

Trăng là bạn, là tri âm, tri kỉ của thi nhân từ ngàn đời nay, là nguồn cảm hứng bất tận của nghệ thuật. Ngoài ra, trong lúc này, trăng là điểm tựa, là niềm an ủi duy nhất đối với thơ, vì thế nhà thơ đã đặt hi vọng vào con thuyền chở trăng có về “kịp” tối nay hay không?

Lời thơ chứa đựng bao thấp thỏm, lo âu, khắc khoải, đợi chờ và cả một cảm giác cô đơn. Chữ “kịp” không phải là một chữ được dùng bóng bẩy là hoàn toàn bình dị nhưng chính nó lại hé mở cho người đọc cảm nhận về tâm thế sống của Hàn Mặc Tử : đó là một cảm nhận về hiện tại ngắn ngủi, sống chạy đua với thời gian, tranh thủ từng giờ, từng khắc.

Nhà thơ đã trực tiếp tâm sư với con người xứ Huế trong khổ thơ thứ ba:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Cảnh vật trong đoạn thơ hoàn toàn là cảnh ảo. Sương khói làm mờ nhân ảnh, cảnh vật được gợi ra mang nét đặc trưng của xứ Huế. Hình ảnh con người xuất hiện với “áo em trắng quá nhìn không ra”, sử dụng từ cực tả.

Câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà” có thể hiểu là lời cô gái hướng tới nhân vật trữ tình nhưng cũng có thể hiểu là lời nhân vật hỏi cô gái. Câu thơ tràn ngập mặc cảm tự ti về tình người, sự hoài nghi về tình cảm của con người xứ Huế liệu có đậm đà hay không.

Trong câu thơ cáo ai đại từ “ai”, một đại từ chỉ tác giả, một đại từ chỉ cô gái hay chính là chỉ tình người trong nhân gian. Đọc bài thơ ta thấy không phải Hàn Mạc Tử hoàn toàn không tin vào sự đậm đà của tình người mà là không dám tin.

Câu thơ vẫn bao hàm một niềm hi vọng sâu sắc , nó mang sự hoài nghi của một người yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha với người nhưng đầy mặc cảm.

Qua hệ thống các câu hỏi và hình ảnh, bài thơ đã thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình, từ mơ ước, đắm say đến hoài vọng, phấp phỏng cho đến mơ tưởng, hoài nghi của một tâm hồn yêu đời, khát khao cuộc sống.

Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử – Bài làm 3

“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt. Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được, nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”. Chính vẻ đẹp thơ mộng ấy của Huế đã khơi nguồn cảm xúc cho biết bao thi sĩ viết nên những bài , một trong những bài thơ đó là “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.

Bài thơ được làm trong khoảnh khắc thăng hoa tình yêu cuộc sống hòa với nỗi đau thương, trong trái tim thi sĩ đang rực cháy hai ngọn lửa tình, đó là tình yêu quê hương đất nước và tình yêu lứa đôi, từ đó đã cho ta một “Đây thôn Vĩ Dạ” mỹ lệ, bất tử làm rung động lòng người.

Bài thơ có liên quan đến mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với người con gái thôn Vĩ tên là Hoàng Thị Kim Cúc.

Khi Hoàng Cúc biết tin Hàn Mặc Tử bị mắc bệnh hiểm nghèo, cô đã gửi một tấm bưu ảnh có hình một cô gái chèo đò, bên trên là cành trúc mảnh mai thanh tú, phía xa là ánh hoàng hôn.

Khi nhận được tấm bưu thiếp những kỉ niệm xưa ùa về, nhà thơ đã vô cùng xúc động và viết nên bài thơ này.

Về kết cấu của bài thơ, bài thơ không liên tục về thời gian, không duy nhất về không gian, các câu thơ liên kết với nhau theo mạch tâm trạng của tác giả.

Cả bài thơ gồm ba khổ thơ, khổ thơ 1 là tâm trạng khát khao say đắm của tác giả trước cảnh đẹp của thôn Vĩ, khổ thơ thứ hai là sự phấp phỏng hoài vọng trước cảnh sông nước đêm trăng. Khổ thơ cuối cùng là nỗi mơ tưởng hoài nghi về tình người thôn Vĩ.

Trước hết là sự hoài niệm về cảnh vườn tược thôn Vĩ ở khổ thơ thứ nhất:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ đầu là một câu hỏi mang nhiều sắc thái vừa hỏi han mời mọc vừa như một lời trách cứ nhẹ nhàng. Chủ thể của câu hỏi là cô gái và cũng có thể là chính tác giả, tác giả tự hỏi tự trách tự ước ao thầm kín được trở về Vĩ Dạ nhưng trong điều kiện thực tế thì không thể được.

Tác giả dùng từ “chơi” chứ không dùng từ “thăm” bởi vì về thăm có tính chất xã giao, khách sáo còn về chơi thì thể hiện sự gần gũi thân mật. Hàn Mặc Tử đã mở đầu bài thơ một cách rất tự nhiên cho thấy mối quan hệ giữa cảnh và người thôn Vĩ.

Ba câu thơ sau là hoài niệm về cảnh vườn tược thôn Vĩ. Cảnh thôn Vĩ vừa mang nét chung vừa mang nét riêng của Vĩ Dạ, đó là cảnh hàng cau trong nắng sớm, nắng hàng cau là thứ nắng tinh khôi thể hiện đúng thần thái của Vĩ Dạ, điệp từ “nắng” hai lần thể hiện bước đi của nắng, đồng thời thể hiện được tính chất nắng nhiều của miền Trung, nắng có từ sáng sớm rồi dâng đầy dần theo những đốt cau.

Vĩ Dạ còn có vẻ đẹp riêng ở những khu vườn mướt xanh như ngọc, trong thơ Hàn Mặc Tử, vườn là một mô típ ám ảnh (vườn trần, vườn tiên, vườn chiêm bao…), nhưng đều chung một đặc điểm là chốn nước non thanh tú.

Vì thế vườn ở Vĩ Dạ dù đơn sơ dù đơn sơ nhưng vẫn toát lên vẻ tinh khôi, dù bình dị cũng toát lên vẻ tinh khiết cao sang. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” đây chính là màu xanh rạng rỡ nhưng không chói lóa mà mát dịu, là màu xanh rất óng ánh và long lanh.

Sự so sánh này là một liên tưởng rất chính xác gợi đúng thần thái của vườn thôn Vĩ trong nắng sớm khi mà vườn cây còn ướt sương đêm. Như Hoài Thanh đã nhận xét: “Thơ Hàn Mặc Tử có những câu thơ đẹp một cách lạ lung, đọc lên như rưới vào lòng một nguồn sáng láng”.

Nhận xét đó rất đúng với câu thơ này.Câu thơ cuối: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền là một câu thơ có nhiều cách hiểu, có thể “mặt chữ điền” là khuôn mặt của người thôn Vĩ thể hiện vẻ đẹp phúc hậu và sự dịu dáng kín đáo của người Huế, khuôn mặt bị che khuất bởi lá trúc tạo nên sự hài hòa của cảnh và người.

Nhưng khuôn mặt đó cũng có thể của chính tác giả, ông hình dung mình trở về thôn Vĩ nhưng không vào mà chỉ nép sau cành trúc để nhìn vào vẻ đẹp của khu vườn.

Ở khổ thơ thứ hai là cảnh sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kíp tối nay”

Cảnh sông nước ở hai câu đầu gợi đặc điểm riêng của Huế: nhẹ nhàng, dịu dàng, hiện thực mà huyền ảo thơ mộng. Dường như tất cả đều xa dần, gió thổi, mây bay, dòng nước lững lờ trôi.

Chữ “buồn thiu” nhân hóa dòng sông thành một sinh thể có hồn mang tâm trạng của Hàn Mặc Tử. Về cấu trúc câu thơ đầu, ngắt nhịp 4/3 chia đôi câu thơ thành hai vế, trong thực tế thì “gió thổi đường nào, mây bay đường ấy” nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây” thể hiện sự hợp lí về tâm trạng, con người có mặc cảm chia li nên nhìn đâu cũng thấy chia li.

Mọi thứ đều chia lìa, chỉ có hoa bắp không thể lưu chuyển nên bị bỏ rơi. Từ “lay” như một sự níu giữ vu vơ của kẻ bị chia lìa, bỏ rơi. Cảnh sông nước đêm trăng ở hai câu cuối mang một vẻ đẹp hiện thực mà huyền ảo.

Ở đây ánh trăng tỏa đầy dòng sông tạo thành “sông trăng”, “sông trăng” là con sông chảy từ cõi thực về cõi mộng. Tâm trạng hoài vọng phấp phỏng của Hàn Mặc Tử thể hiện ở chữ “kịp”, chỉ với một từ nhưng đã biến câu thơ thành một lời cầu khẩn đầy khắc khoải, dường như nếu thuyền không chở trăng về kịp tối nay thì nhà thơ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn và cô đơn.

Khổ thơ cuối là hoài niệm về người thôn Vĩ với nỗi niềm hoài nghi:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”

Ở đây nhịp điệu của khổ thơ đã gấp gáp khẩn khoản hơn. Hình ảnh người thôn Vĩ hiện ra với vẻ đẹp tinh khiết, thể hiện qua sắc áo trắng ở mức độ tuyệt đối “trắng quá nhìn không ra”, người thôn Vĩ hiện ra trong hoài niệm vừa huyền ảo vừa hiện thực, vừa gần gũi vừa xa xôi.

Hiện thực ở màu áo trắng nhưng huyền ảo ở mức độ trắng quá, gần gũi ở chỗ đã từng quen biết nhưng xa vời ở chỗ chỉ là “khách đường xa”. Trong khổ thơ này, tâm trạng của nhà thơ là vừa mơ tưởng vừa hoài nghi thể hiện ở đại từ phiếm chỉ “ở đây” và “ai biết tình ai”. Câu thơ cuối cùng là một câu hỏi thể hiện tâm trạng cô đơn, trống vắng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh thiên nhiên đẹp, nhưng ở một cái nhìn sâu hơn thì bài thơ là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử – một nghệ sĩ tài hoa đa tình, đa cảm. Chính những tình cảm da diết đó đó đã làm cho bài thơ sống mãi trong lòng người đọc hiện giờ và mai sau.

Trên đây là bài viết bình giảng Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho các bạn học sinh trong quá trình học tập và rèn luyện. Chúc các bạn học tốt!

Xem thêm:

Bạn thấy bài viết này hữu ích chứ?

Hãy chọn vào ngôi sao để đánh giá bài viết

Đánh giá trung bình 0 / 5. Lượt đánh giá 0

Hãy là người đầu tiên đánh giá bài viết

Hãy để lại bình luận

Xem nhiều

Bài tin liên quan

1C bằng bao nhiêu µC? Quy đổi từ Microcoulomb sang Coulomb

Khi nhắc đến đơn vị đo điện tích thì...

1 kN bằng bao nhiêu N? Chuyển đổi Kilonewton sang Newton

Bạn đã từng nghe về đơn vị đo lực...

1kg bằng bao nhiêu hg, mg, µg, lb? Cách quy đổi khối lượng nhanh

Kg là đơn vị được ứng dụng nhiều trong...

1 dag bằng bao nhiêu g? Cách quy đổi từ Đềcagam sang Gam

Trên thực tế, đơn vị đo khối lượng decagram...