“Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng?” – Tống biệt hành được xem là một trong những bài thơ hay nhất của trào lưu Thơ mới. Trong bài viết sau, hãy cùng DINHNGHIA.COM.VN phân tích bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm nhé!
Nội dung bài viết
Phân tích bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm – Bài làm 1
Thâm Tâm làm bài thơ Tống biệt hành vào năm 1940 để tiễn một người bạn ra đi theo chí lớn. Có thể coi đây là một trong những bài nhất của trào lưu Thơ mới. Trước hết là nhan đề bài thơ.
Tống biệt là tiễn đưa, hành là một thể thơ cổ điển của Trung Quốc vừa trữ tình vừa tự sự, hình thức tương đối tự do, không theo niêm luật chặt chẽ như thơ Đường. (Ví dụ: Tì bà hành).
Tống biệt hành viết về cuộc tiễn đưa và tình li biệt. Nó mang dáng dấp của một bài thơ cổ, phảng phất dư âm ngàn xưa. Đề tài tuy không mới nhưng cách diễn đạt thì hết sức độc đáo.
Đây là cuộc chia tay của một người trai nặng lòng hiếu thảo nhưng phải giã từ gia đình ra đi theo nghĩa lớn. Bài thơ vừa thể hiện tình cảm lưu luyến trong các cuộc tiễn biệt đương thời, vừa tiêu biểu cho các cuộc chia li muôn thuở.
Bài thơ có hai nhân vật: người tiễn và người đi. Tình cảm của người đi có lúc biểu hiện qua tâm trạng của người tiễn. Từ câu đầu đến câu cuối của bài thơ đều nhằm miêu tả diễn biến phức tạp của tâm trạng người đi. Tâm trạng ấy chỉ có người đưa tiễn là tri kỉ mới cảm thông và thấu hiểu:
“Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng…”
Khổ thơ miêu tả tình người ra đi và tình người ở lại. Hai câu thơ trên là nỗi lòng người đưa tiễn được diễn tả bằng tiếng sóng ở trong lòng (âm thanh).
Hai câu thơ sau là tâm sự người ra đi được thể hiện bằng hoàng hôn trong mắt trong (hình sắc). Khung cảnh ở đây rất bình thường, không hề có động thái gì can thiệp đến tình người.
Khác hẳn quan niệm xưa trong văn chương: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, vậy mà nỗi buồn chia phôi đều có đủ.
Đưa người, ta không đưa qua sông, câu thơ toàn thanh bằng tạo nên âm hưởng bâng khuâng, xao xuyến, giống như lời lòng tự hỏi lòng của người đưa tiễn.
Cách xưng hô ta với người khiến cuộc tiễn đưa mang khí vị xưa. Cuộc chia tay này không diễn ra trên bến sông nên không có sóng làm tác nhân gợi nỗi buồn li biệt, nhưng cái tiếng sóng của các cuộc biệt li bên sông nước ước lệ trong văn chương từ ngàn xưa đã ngấm vào tâm hồn tác giả, để rồi chính nhà thơ cũng ngạc nhiên khi trong cái không (không đưa qua sông) lại nổi lên cái có (có tiếng sóng ở trong lòng).
Ở câu thứ hai, mấy vần trắc liền nhau gợi liên tưởng như có tiếng sóng thật ở trong lòng và nghe trong tiếng sóng dường như có cả hơi lạnh của gió sông.
Sự ra đi của một con người dám trả lời không cho cuộc đời bình an của bản thân và gia đình, dám đánh đổi cuộc sống ấy lấy gian khổ, hi sinh, đó là khí phách.
Tiễn đưa con người có khí phách như thế, kẻ ở lại làm sao không nổi sóng ở trong lòng ?! Những cơn sóng âm thầm nhưng là sóng cảm phục, sóng thương yêu. Cái hay của Thâm Tâm là đã miêu tả nội tâm bằng chính nội tâm của nhân vật trữ tình.
Buổi chiều chia tay cũng bình thường như bao chiều khác, không có gì đặc biệt: Bóng chiều không thắm, không vàng vọt nhưng hoàng hôn lại đọng đầy trong mắt kẻ ra đi.
Hoàng hôn trong mắt là buồn và lo, là nhớ thương, lưu luyến khi tiễn biệt. Ở câu thơ này nó còn có một ẩn ý khác. Đó là sự tương phản giữa ngoại cảnh và nội tâm, giữa dáng vẻ bề ngoài và diễn biến tâm trạng giằng xé bên trong của người đi.
Buổi chiều chưa nhạt nắng (Bóng chiều không thắm không vàng vọt), vậy mà hoàng hôn đã vội buông đầy trong mắt trong. Bề ngoài người đi tỏ ra bình thản nhưng đây là thái độ lạnh lùng thực sự hay chỉ là sự ghìm nén bao cảm xúc dang trào dâng trong lòng?
Người ra di cố cưỡng lại tình cảm nhưng tình cảm vốn tự nhiên nên nó vẫn cứ dâng trào. Nỗi buồn li biệt dù che giấu kín đáo đến mấy vẫn hiện ra. Người bạn tri ki đã thấy rõ bỏng hoàng hôn trong mắt trong của người đi.
Khổ thơ đượm một nỗi buồn nhưng nỗi buồn ấy là tình cảm tự nhiên và trong sáng. Để thể hiện, Thâm Tâm đã sử dụng những hình ảnh đẹp vừa mang phong vị cổ điển, vừa có phần sáng tạo riêng rất hiện đại: sóng lòng, hoàng hôn trong mắt… và từ ngữ giàu khả năng gợi tả.
Bên cạnh đó là nghệ thuật phối hợp âm thanh cũng như đặt lời thơ trong Ồm diệu nghi vấn: sao có tiếng sóng, sao đầy hoàng hôn… để thể hiện cảm xúc xao xuyến, bồi hồi. Đây là đoạn thơ hay và đẹp của bài thơ.
Vậy người ra di là ai mà buổi chia li quyến luyến và nặng tình đến thể?
Đài thơ lặp lại bảy lần từ người: đưa người, đưa người, đưa người, người buồn, người buồn, người đi, người đi nhưng vẫn chưa giúp ta hiểu gì về người đó.
Ta chỉ biết người ra đi có một gia cảnh thật khó khăn: mẹ thì già, hai người chị luống tuổi muộn chồng, em còn thơ dại. Là con trai lớn, lẽ ra anh phải ở nhà chăm sóc mẹ già, giúp đỡ các chị, dạy bảo em thơ thì mới thuận cảnh, thuận tình.
Nhưng là một nam nhi ôm mộng lớn, mơ nghiệp lớn, anh rơi vào mâu thuẫn giữa tình nhà và chí lớn, giữa bổn phận và khát vọng. Khát vọng giục anh lên đường, bổn phận níu anh ở lại.
Là một trang nam nhi nên anh phải ra đi. Để có thể ra đi, anh phải dùng cả lí trí và ý chí để dằn lòng, để tự lí giải, biện hộ cho cuộc ra đi của mình. Con người không tên tuổi nhưng quyết ra đi ấy là chủ thể trữ tình của bài thơ.
Bài thơ có hai nhân vật nhưng chỉ có một tâm trạng. Người tiễn chỉ biết có người đi: Đưa người, ta chỉ đưa người ấy. Câu thơ cho ta thấy tuy đã xác định cho mình nỗi đau chia biệt nhưng người tiễn vẫn cứ ngỡ ngàng, thảng thốt.
Ra đi là chưa biết bao giờ trở lại nhưng người ra đi có thái độ: Một giã gia đình, một dửng dưng. Tuy cố tỏ ra mạnh mẽ, dứt khoát nhưng trong lòng vẫn không khỏi vấn vương. Vì thế mà phải tự động viên:
“Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.”
Li khách là từ sáng tạo độc đáo của riêng Thâm Tâm dùng để gọi người đi với thái độ trân trọng. Nó làm cho người đọc nhớ đến hình ảnh của Kinh Kha: Nhất khứ hề bất phục hoàn (một đi không trở lại) trong thơ cổ điển Trung Hoa.
Người ra đi phải chấp nhận hi sinh tình nhà và hi sinh bàn thân vì nghĩa lớn.
Chí nhớn mà đường nhỏ. Con đường nhỏ là con đường mới mở, gập ghềnh, đầy nguy hiểm. Cuộc đi chưa thấy có hứa hẹn gì cho việc xây nên nghiệp lớn ngoài sự háng hái tinh thần.
Ra đi là để thực hiện chí nhớn. Xông pha vào chốn hiểm nguy là cầm chắc khó khăn, gian khổ, nhưng người đi đã tự xác định lập trường bằng bao chữ không: không bịn rịn gia đinh, là dửng dưng, nhằm vào con đường nhỏ kia mà đi, không xong chi nhớn thì không nói trở lại quê nhà, dù Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Cho nên cái Chí nhớn chưa về bàn tay không ấy nó thiêng liêng, xúc động nhưng cũng thoáng chút ngậm ngùi, thương cảm.
Còn đối với chị em trong gia đình thì tình cảm của người ra đi như thế nào?
“Ta biết người buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay,
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ, đôi mắt biếc
Gói trộn thương tiếc chiếc khăn tay…”
Người ra đi có vẻ hào hùng, hăng hái nhưng thật ra là buồn; buồn từ chiều hôm trước, buồn đến sáng hôm nay. Chia tay cuối mùa hạ, trong ao lác đác mấy đóa sen nở muộn.
Hai chị gạt dòng lệ sót để khuyên em. Chữ sót thể hiện tình chị thương em và cho thấy hết nỗi nhọc nhằn trong đời chị. Buổi tiễn đưa: Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay. Em nhỏ nhìn anh với đôi mắt biếc mà lặng thầm gói tròn thương tiếc trong chiếc khăn tay.
Người ra đi trong chí lớn, trong quyết tâm nhưng vẫn dành cho mẹ già, cho các chị, cho em nhỏ những tình cảm tha thiết nhất, dù cố nén vào trong.
Hai chị như sen cuối hạ, vẻ đẹp đã tàn phai. Một chị, hai chị là đếm sen mà nghĩ đến phận chị. Câu thơ nói tắt, tạo được ý lạ. Còn câu: Bây giờ mùa hạ sen nở nốt, đọc qua một lần thấy không liên kết vào đâu (cũng giống như câu: Giời chưa mùa thu tươi lắm thay), vì mạch thơ đang tả tâm trạng lại nói đến chuyện sen nở.
Tuy vậy những chi tiết bất ngờ đó đã được khai thác và hoà nhập vào mạch thơ. Hình ảnh mùa hạ sen nở nốt đã dẫn đến liên tưởng Một chị hai chị, cũng như sen. Tương tự như thế, ở đoạn dưới, hình ảnh Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay cũng liên quan đến đôi mắt biếc của đứa em nhỏ ngây thơ.
Mẹ thì già, hai chị thì lận đận, em thì còn nhỏ… Gia cảnh ấy đủ làm nhụt chí người đi, tưởng chẳng thể nào đi được. Thế mà: Người đi? ừ nhỉ, người đi thực! Hai chữ ừ nhỉ thể hiện nỗi thẫn thờ, nuối tiếc.
Mở đầu bài thơ, viêc ra đi đã xác định rõ, sao đến cuối bài còn như vậy? Ấy là người đưa tiễn vẫn cứ hi vọng tuy rất mong manh là đến phút cuối, cuộc ra đi sẽ không thành.
Niềm hi vọng này không được nói ra vì mọi sự chuẩn bị tâm lí đều dành cho sự ra đi. Nhưng sự ra đi ấy vẫn cứ gây ra cảm xúc thảng thốt không ngờ. Hai chữ ừ nhỉ lại cả cái chí nhớn, một đi không trở tại ở trên, khiến cho sự ra đi trở thành việc bất đắc dĩ ở lại thì bế tắc nhưng ra đi cũng chưa thấy gì tươi sáng. Mấy câu thơ cuối kết tụ nỗi buồn trong lòng cả kẻ ở lẫn người đi:
“Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.”
Mỗi câu thơ nhắc đến một đối tượng: Mẹ, chị, em nhưng đều là một phần máu thịt, một phần linh hồn của người đi.
Điệp ngữ thà coi như nhắc lại ba lần, mỗi lần đi liền với một ẩn dụ so sánh: chiếc lá bay, hạt bụi, hơi rượu say là những thứ tồn tại mà như không tồn tại. Người ra đi coi mình là không đáng kể. So sánh như thế là để an ủi người thân và khẳng định thêm quyết tâm ra đi.
Người ra đi đã đi thật rồi, mọi điều quyến luyến vấn vương coi như chấm dứt. Người đi sẽ nhẹ lòng, người ở lại rồi cũng sẽ nguôi ngoai, cấu trúc ba câu thơ lặp lại cùng một âm điệu gần như dứt khoát, không thể khác được, tưởng như là tiếng khóc muốn vỡ òa mà cố cắn răng kìm nén để không bật lên thành tiếng của hai người bạn thân thiết trong phút chia tay.
Chi vì ôm ấp hoài bão lớn mà người ra đi chấp nhận sự chọn lựa nghiệt ngã giữa khát vọng và bổn phận, chứ đâu phải anh là kẻ có trái tim vô cảm, sắt đá! Tất cả những éo le ngang trái của cảnh ngộ, quy luật khắc nghiệt của đời thường, nỗi buồn thương ngậm ngùi của các nhân vật trong bài thơ đều hội tụ ở đây.
Bài thơ chấm dứt trong âm điệu trầm buồn pha chút xót xa. Từ ngữ, hình ảnh có chỗ gợi lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ, nhưng cái bâng khuâng khó hiểu của thời đại mà bài thơ diễn tả như nhận xét của Hoài Thanh thì đến nay, chúng ta đã phần nào hiểu được.
Phân tích bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm – Bài làm 2
Thâm Tâm là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, là một nhà thơ luôn mang nặng những tâm sự của thời đại cái tôi, với một giọng thơ rắn rỏi, gân guốc, phảng phất chất thơ cổ điển.
Đọc thơ Thâm Tâm, ta cảm nhận được những suy tư, uất ức nhưng ẩn sâu trong đó lại là tình yêu nước thầm kín và khát vọng mãnh liệt thoát ra khỏi cuộc sống bế tắc của thực tại. Bài thơ “Tống biệt hành” là một bài thơ khá tiêu biểu của Thâm Tâm, thể hiện được phần nào cảm hứng sáng tác, tâm hồn của thi nhân.
Bài thơ “Tống biệt hành” viết về một cuộc chia li, sự ra đi không hẹn ngày về. Qua đó nhà thơ Thâm Tâm thể hiện được những cảm xúc, dãi bày được những tình cảm cũng như những nỗi niềm sâu kín trong chính tâm hồn của mình.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã gợi ra không khí của cuộc chia ly cũng như trạng thái tình cảm trước cuộc chia ly ấy:
“Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
Không khí của cuộc ly biệt đầy lưu luyến giữa người đi và kẻ ở, và trong hoàn cảnh này, với tư cách là người ở lại, nhà thơ Thâm Tâm vừa thể hiện nỗi buồn li biệt, vừa thể hiện được tình cảm tha thiết với người đi.
Và chính tình cảm này chi phối cách suy nghĩ của nhà thơ, dù tiễn biệt ngàn trùng cũng phải chia li, nhưng nhà thơ vẫn xúc động khi khung cảnh ấy thực sự diễn ra, và thể hiện sự tiếc nuối khi không đưa được xa hơn “Đưa người, ta không đưa qua sông”, vì bến sông bên kia chính là điểm đến của người đi.
Cũng có nghĩa giờ phút chia li đã đến. Tâm trạng nhà thơ được tái hiện một cách sống động qua tiếng sóng lòng “Sao có tiếng sóng ở trong lòng”, đó là những dao động, những nỗi niềm khắc khoải khôn nguôi cuồn cuộn, dạt dào khi sắp phải chia xa với người mà mình yêu mến.
Bóng chiều thường gợi ra cho con người những nỗi buồn, nỗi nhớ man mác. Và trong cuộc chia li này, bóng chiều cũng xuất hiện nhưng không có gì đặc biệt, không đỏ thắm cũng không vàng vọt do tàn dư của ánh nắng mặt trời.
Trong cách miêu tả của nhà văn Thâm Tâm, ta cảm nhận được cái nhạt nhòa của ánh sáng “Bóng chiều không thắm, không vàng vọt”.
Nhưng, trong cái nhìn của người ở thì ánh hoàng hôn phản chiếu qua ánh mắt trong “Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”, ta có thể hiểu ánh hoàng hôn phản chiếu qua ánh mắt này không phải hình ảnh thực mà chỉ là hình ảnh giả tưởng, nhằm nhấn mạnh sự nhớ thương của người ở đối với người đi.
Về mặt tả thực, ta cũng có thể hiểu đó chính là sắc đỏ của ánh mắt khi con người đang xúc động cao độ, đang nhớ thương vô hạn.
“Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng”
Câu thơ gợi ra cho ta rõ hơn về khung cảnh của cuộc chia li, đó không phải không khí đông đúc bạn bè người thân, mà chỉ có hai chủ thể, đó chính là tác giả – người ở và người đi- người mà nhà thơ yêu mến “Đưa người ta chỉ đưa người ấy”.
Và tâm trạng của người đi, kẻ ở cũng hoàn toàn trái ngược nhau “Một giã gia đình, một dửng dửng”, đối với nhà thơ, người đi như một người thân trong gia đình, gắn bó ruột thịt nên khi phải chia xa thì không tránh được cảm giác đau đớn, hụt hẫng.
Trái lại, người đi thì “dửng dưng”, điều cần nhấn mạnh ở đây,là ta cần hiểu đúng nghĩa của từ này. “Dửng dưng” không có nghĩa là vô tâm, hời hợt, không có cảm xúc gì mà nó thiên về tư thế khi ra đi. Đó là một tư thế hiên ngang, một ý chí bất khuất, không hối hận.
“Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong”
Quả đúng như ta dự đoán, tư thế ý chí của người đi đến khổ thơ này được nhà thơ nhấn mạnh, làm sáng tỏ, rạch ròi. “Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ”, nhà thơ dùng những từ Hán Việt để làm cho không khí của buổi đưa tiễn mang màu sắc trang trọng.
“Con đường nhỏ” ở đây ta có thể hiểu đó chính là con đường lí tưởng mà người đi đã lựa chọn, vì nhỏ nên ắt hẳn sẽ có những gian nan, khó khăn khi thực hiện cuộc hành trình ấy.
“Chí nhớn chưa về bàn tay không/ Thì không bao giờ nói trở lại”, câu thơ thể hiện được bất khuất trong ý chí, tinh thần mang màu sắc của những chiến binh xưa, ra đi không hẹn ngày về.
Tuy nhà thơ không nói rõ chuyến đi xa này điểm đến là đâu, mục đích là gì. Nhưng qua sắc thái của câu thơ, ta cảm nhận được cái chân thành, cao cả trong lí tưởng, khi chưa hoàn thành được sự nghiệp của bản thân thì quyết không trở về.
Và cũng xác định sẵn tư tưởng cho người ở lại, nếu ba năm tin tức bặt vô thì cũng có nghĩa là người ấy cũng không thể trở về được nữa “Ba năm mẹ già cũng đừng mong”.
“Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót”
Và chuyến đi không hẹn ngày về này không chỉ có Thâm Tâm cảm thấy đau đớn, xót xa mất mát mà còn rất nhiều người thân của người đi cũng không khỏi bồi hồi, lưu luyến “Ta biết người buồn chiều hôm trước”, đó chính là những người thân của người đi.
Và đã là người thân thì đâu ai muốn người thân yêu của mình phải đi vào chỗ hiểm nguy, chết chóc. Cũng vì vậy mà các chị đã hết lời khuyên em, dù biết chẳng thể đổi thay gì “Một chị, hai chị cũng như sen/ Khuyên nốt em trai dòng lệ sót”.
Giọt lệ tràn mi thể hiện được sự nỗi đau cũng đồng thời thể hiện sự chấp nhận đầy miễn cưỡng, không muốn nhưng vì em các chị vẫn đồng ý, động viên.
“Ta biết người buồn sáng hôm nay
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc, chiếc khăn tay”
Bên cạnh cái “dửng dưng” khi ra đi thì những nỗi buồn được người đi giấu kín trong đáy sâu của tâm hồn. Người không chỉ buồn buổi chiều hôm trước, khi chia tay người thân, mà ngay giờ phút này đây, vào giờ phút chia li thì cảm giác chia phôi, mất mát cũng chưa một phút phai nhạt trong con người ấy.
Nhưng “Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay”, nhà thơ tin tưởng vào tương lai, vào sự đoàn viên không xa, bởi trời vẫn đẹp, tiết trời còn chưa sang thu. Dùng thời gian để nói về ý niệm tình cảm, có thể thấy đây là nét độc đáo trong cách thể hiện của nhà thơ.
Hình ảnh em nhỏ ngây thơ xuất hiện thật bất ngờ, làm cho ta suy nghĩ, chắp mối quan hệ và gợi những liên tưởng phong phú. Đó có thể là một người em đơn thuần của người đi, hay đó cũng có thể là người thương của người đi.
Chiếc khăn tay được gói tròn, là tình cảm song cũng là niềm thương tiếc với người đi “Gói tròn thương tiếc, chiếc khăn tay”.
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say”
Ở những câu thơ tiếp theo lại là khoảng thời gian sau đó, khi người đi mà không thấy ngày trở về. Nhà thơ nhận thức được hiện thực ấy những vẫn tự hỏi mình một cách chua xót “Người đi! Ừ nhỉ, người đi thực”, đó chính là cái mơ hồ của cảm giác, dù người đã đi thực rồi nhưng vẫn tưởng như không.
Người đi để lại sau lưng tất cả “Mẹ thà coi như chiếc lá bay”, người đi rồi, mẹ già lẻ bóng thấp thỏm chờ con, dù mái đầu đã bạc nhưng không có người phụng dưỡng, chăm lo. “Chị thà coi như hạt bụi”, em không về, người chị ôm nỗi nhớ em, sầu thương.
“Em thà coi như hơi rượu say”, hình ảnh này khá độc đáo, vì hơi rượu làm người ta say, thăng hoa về cảm xúc trong chốc lát. Nhưng khi hơi rượu tàn thì sự thăng hoa ấy có thực sự tồn tại, hay chỉ tồn tại trong kí ức đầy mơ hồ.
Như vậy, bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm nói về cuộc chia ly đầy cảm động của người đi, kẻ ở. Cũng nói lên khát vọng, lí tưởng cháy bỏng của người đi, dù không biết điểm đến của người đi là đâu nhưng qua sự quyết tâm thì người đọc cũng hiểu khát vọng ấy đủ lớn, đủ cao cả để người đi bỏ lại sau lưng những tình cảm cá nhân, những thứ quý giá của cuộc đời mình.
Và khi người đi không trở lại thì dư âm của nỗi đau, của sự xót thương vẫn còn tồn đọng mãi không phai.
Phân tích bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm – Bài làm 3
Có biết bao nhiêu nhà thơ tài năng nhưng số phận chỉ cho họ một cuộc đời ngắn ngủi. Điều đó đồng nghĩa với việc sự nghiệp sáng tác thơ ca của họ cũng rất ngắn ngủi cho nên nó rất ít tác phẩm.
Một trong những nhà thơ đó ta phải kể đến nhà thơ Thâm Tâm. Ông là một nhà thơ nhưng ông cũng đồng thời là một chiến sĩ cộng sản chính vì thế trong đợt chiến Cao Bắc Lạng ông đã hi sinh. Và đặc biệt trong những tác phẩm ít ỏi của ông phải kể đến bài thơ Tống biệt hành.
Tống biệt hành” vào năm 1940. Bài thơ thể hiện niềm mến yêu, sự ngưỡng mộ và trân trọng đối với người lên đường đi xa vì nghĩa lớn.
Nhan đề của bài thơ có vẻ độc đáo và rất lạ, tống biệt hành có nghĩa là tiễn người đi xa Cái chỗ khiến cho người ta dễ hiểu lầm là do hành vừa có nghĩa là đi dời khỏi mà lại vừa có nghĩa là bài hát. Tuy nhiên chúng ta dựa vào những câu thơ trong bài thì vẫn biết được đây là hành mang nghĩa dời đi.
Cảnh đưa tiễn diễn ra vào một buổi chiều, không hề có bến đò, dòng sông, không diễn ra trong khoảnh khắc hoàng hôn mà vẫn buồn:
“Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”
Đảo ngữ đưa người nhấn mạnh trạng thái hành động mà câu thơ muốn nói đến là hành động tiễn đưa mọt người bạn. Và cái hành đông tiễn đưa ấy ta không đưa qua sông mà chỉ ngắm nhìn từ xa, tiễn rồi mà mắt cứ trông hoài về phía người đi.
Nhưng mà tại sao tác giả lại nghe tiếng sóng ở trong lòng. Câu hỏi tu từ được cất lên mà không có ai đáp lại. Phải chăng đó chính là sóng lòng trong chính nhân vật trữ tình?
Tiếng sóng ấy thể hiện sự buồn thương của nhà thơ khi phải tiễn đưa người mà mình yêu quý. Buổi chia tay đưa tiễn ấy không có một ánh nắng vàng vọt mà sao lại thấy hoàng hôn.
Hình ảnh hoàng hôn ở đây gợi cho ta cảm giác chia ly giống như một ngày tan xuống nhường cho bóng đêm ngự trị. Câu hỏi tu từ ấy một lần nữa được cất lên sao mà tha thiết, vấn vương đến thế. Và tác giả chỉ đưa người ấy với sự tiễn biệt giã gia đình dửng dưng.
Những câu thơ tiếp theo hình ảnh li khách đang được nhắc đến, đó là một hình ảnh con người ôm chí lớn và quyết tâm ra đi:
“Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!”
Li khách có nghĩa khách ra đi, người ra đi. Đó là cách gọi trang trọng và thân thương. Đoạn thơ cho ta thấy một sự cảm phục không hề nhỏ của nhà thơ dành cho người ra đi.
Điệp từ “li khách” như vang lên ca tụng ý chí của người ra đi. Con đường kia dẫu cho nhưng một khi chí lớn chưa thành thì nhất định không trở về với hai bàn tay trắng.
Ý chí ấy thể hiện rất cương quyết nếu không thành thì không về dặn mẹ già đừng mong vì nếu chưa tròn sự nghiệp thì chưa về. Câu thơ khiến cho người ta cảm thấy đó giống như một người con bất hiếu chỉ nghĩ đến hoài bão của mình mà không quan tâm đến mẹ già ở nhà. Nhưng đó chỉ là cách để nhà thơ thể hiện ý chí lớn lao ấy mà thôi.
Về phương diện tình cảm thì tác giả nói đên những người thân trong gia đình. Người đó có thể là con là em trong gia đình ấy:
“Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay. . ”
Đó là những người chị người em của người ra đi. Họ mang đến cho ta biết bao nhiêu tình thân thương yêu của những người trong một mái nhà.
Người em, người anh của họ ra đi về nghĩa lớn vào những khoảng thời gian hôm qua và hôm nay, mùa hè và mùa thu. Tưởng chừng sự ra đi trong hôm trước và hôm sau nó dài tựa qua đi một mùa của thiện nhiên đất trời. có thể thấy rằng người ở lại và người ra đi đều mang trong mình một nỗi vấn vương lớn.
Đoạn thơ cuối cất lên với nhiều cách hiểu khác nhau nhưng chúng ta thấy được sự dư ba trong chính những câu thơ ấy:
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say. . . ”
Đó là cái đi dửng dưng của người li khách về nghĩa lớn trong mình. Người ta có thể hiểu nhầm rằng người ra đi không thương cho mẹ già em nhỏ, chị gái nhưng không phải thế. Li khách rất thương là đằng khác nhưng mà khi đã vì nghĩa lớn thì vẫn cứ phải dứt áo ra đi.
Qua đây ta thấy Thâm tâm đã mang đến cho chúng ta một chí lớn không hề nhỏ trong bài thơ này. Nó như dạy ta biết hi sinh vì đại nghiệp lớn.
Tình cảm ca nhân,tình thương yêu của những người thân bên gia đình ai mà không trân trọng thế nhưng vì trân trọng nên mới phải ra đi. Cái nghiệp lớn kia phải chăng chính là cái sự nghiệp đấu tranh dành độc lập cho tổ quốc dân tộc của nhà thơ.
Người li khách kia hay chính là nhà thơ. Nói tóm lại dù thế nào đi nữa ta vẫn thấy được một tinh thần mọt ý chí lớn trong bài thơ này.
Xem thêm:
- So sánh vẻ đẹp trữ tình của sông Đà và sông Hương
- Soạn bài và Tóm tắt Uy Lít Xơ trở về – Ngữ Văn 10
- Soạn bài Lão Hạc Ngắn Gọn HAY NHẤT và tóm tắt tác phẩm lão Hạc lớp 8
Trên đây là bài viết phân tích bài thơ Tống biệt hành cùng câu thơ mở đầu nổi tiếng “Đưa người ta không đưa qua sông” của Thâm Tâm. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho bạn đọc trong quá trình học tập và rèn luyện. Chúc bạn học tốt!