Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng – Ngữ Văn 12

0
(0)

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng để thấy hình tượng người lính vừa hào hoa thơ mộng lại vừa kiên cường bất khuất. Tây Tiến đã trở thành những hoài niệm khó quên về một thời lịch sử hào hùng trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hãy cùng DINHNGHIA.Com.Vn tìm hiểu và cảm nhận bài thơ Tây Tiến trong những nội dung dưới đây.

Mở bàiVăn học luôn đi liền cùng lịch sử, và ở mỗi giai đoạn khác nhau sẽ có một đề tài khác nhau. Trong kháng chiến chống Pháp đầy cam go ác liệt, văn học cũng theo sát bước chân của lịch sử.

Hơi thở thời đại hòa cùng với nhiệt huyết của thi nhân đã cho ra đời một hình tượng người lính rất riêng. Nói đến người lính ta thường nghĩ đến sự hy sinh, sự kiên cường anh dũng nhưng lại quên mất họ còn là những con người có tâm hồn lãng mạn và đầy phóng khoáng.

Quang Dũng đã thể hiện thật tròn trịa và chân thật bức chân dung người lính qua thi phẩm Tây Tiến. Tây Tiến là khúc hát của nỗi nhớ khôn nguôi trong trái tim Quang Dũng về một binh đoàn với những con người đặc biệt.

Những nét chính về nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến

Trong quá trình cảm nhận bài thơ Tây Tiến, bên cạnh việc nắm được những nét đặc biệt của tác phẩm, giá trị nội dung cũng như nghệ thuật, người đọc cũng cần biết đến một số điểm cơ bản về tác giả và tác phẩm.

Đôi nét về tác giả Quang Dũng

Quang Dũng sinh năm 1921 mất năm 1988. Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở làng Phượng Trì, làng Đan Phượng.

Làng Phượng Trì mặt ngoài là phố buôn bán, bên trong là làng. Đời ông nội Quang Dũng nhà ở trong làng đến đời cha Quang Dũng thì chuyển ra ở phố.

Mẹ Quang Dũng mở gian hàng buôn bán nhỏ. Nhà ông vừa làm nông vừa buôn bán nhỏ. Quang Dũng học trường làng đến  cấp Thành chung rồi về học Sư phạm ở Hà Nội.

Với tính tình phóng khoáng, không chịu gò bó, ông không làm viên chức cũng không đi dạy học mà dành thời gian để làm nhạc công.

Quang Dũng là một người nghệ sĩ tài hoa và đa tài, vừa viết văn, làm thơ, vẽ tranh và soạn nhạc. Ở lĩnh vực nào ông cũng thể hiện rõ một tâm hồn phóng khoáng, lãng mạn.

Chính vì vậy, thơ Quang Dũng cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc phong cách ấy –  phóng khoáng, hồn hậu lãng mạn và tài hoa.

Năm 2001, Quang Dũng được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Một số tác phẩm chính của Quang Dũng phải kể đến các bài thơ nổi tiếng ghi dấu ấn trên văn đàn như Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ, Quán bên đường, Lính râu ria, tập thơ Mây đầu ô…

Chân dung tác giả Quang Dũng
Chân dung tác giả Quang Dũng

Tìm hiểu về bài thơ Tây Tiến

Bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào năm 1948. Đó là những năm tháng rực lửa của cách mạng Việt Nam. Vì thế, thơ ca lúc bấy giờ thấm đẫm một hào khí, bừng bừng một nhiệt huyết.

Từ Phù Lưu Chanh hiền hòa bên sông Đáy, Quang Dũng đã chắp bút một cách đầy ngẫu hứng để sáng tác nên bài thơ.

Gọi là phút ngẫu hứng nhưng thật ra nó được kết tinh từ nỗi nhớ chân thật của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà ông đã tham gia. Người lính Tây Tiến phần đông là học sinh sinh viên – những con người trí thức.

Vì vậy, ở họ không chỉ có sự hy sinh, quên mình như bao người lính nơi chiến trận mà còn mang một vẻ đẹp lãng tử của thanh niên chốn Hà thành.

Tìm hiểu về bài thơ Tây Tiến
Tìm hiểu về bài thơ Tây Tiến

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng

Tây Tiến trong nỗi nhớ của Quang Dũng là những bước hành quân gian khổ, là nỗi nhớ về đêm hội doanh trại và cũng là những ước hẹn…

Những bước đường hành quân gian khổ giữa thiên nhiên Tây Bắc

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến để thấy ngay phần mở đầu là một nỗi nhớ da diết và thường trực, một nỗi nhớ kéo dài khôn nguôi.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Từ sự xa cách “xa rồi”, nỗi nhớ theo điệp từ tràn về đầy cả không gian, thời gian. Cụm từ cảm thán “Tây Tiến ơi” vang lên thổn thức nỗi lòng gợi nhớ đến đoàn quân Tây Tiến thân thương. Nỗi nhớ từ cụ thể “sông Mã”, “Tây Tiến” bỗng trở nên xa xăm, vô định “nhớ chơi vơi”.

Biết bao cảm xúc dồn lại trong hai tiếng “chơi vơi” ấy. Đó là nỗi nhớ không sao cất thành lời về đoàn quân Tây Tiến, về núi rừng Tây Bắc. Thiên nhiên hiện về một cách cụ thể hơn như để lý giải cho nỗi nhớ “chơi vơi”.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Khi cảm nhận bài thơ Tây Tiến, ta thấy hình ảnh địa danh Sài Khao với “sương lấp” vừa thể hiện điều kiện thiên nhiên không thuận lợi vừa làm nặng nề thêm những vất vả gian lao cho “đoàn quân mỏi”.

Cùng với đó là điệp từ “dốc” đặt ở đầu hai vế câu thơ gợi cảm giác những con đường dốc nối tiếp nhau.

Những từ láy tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đặt trong câu thơ nhiều thanh trắc góp phần miêu tả cảnh hùng vĩ, đầy hiểm trở của núi rừng.

Con đường hành quân qua dốc núi vừa gập ghềnh, trắc trở, vừa cao vừa sâu hun hút, đỉnh dốc chơi vơi giữa trời vắng lặng. Điệp từ “ngàn thước”, cặp từ tương phản “lên – xuống”, nhịp thơ 4/3 như tô đậm chiều cao, độ sâu và tạo một nét gãy đầy ấn tượng của núi đèo.

Con đường như dài ra theo bao nhiêu nguy hiểm, khó khăn, vất vả với “cọp trêu người” – hình ảnh luôn rình rập chiều chiều, đêm đêm và thác cao nghìn thước.

Vất vả, gian lao nên không ít người đã mệt mỏi “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cách nói giảm làm dịu bớt đau thương – họ hi sinh như đi vào giấc ngủ thanh thản – nhưng cũng không che giấu hết những gian khổ, nhọc nhằn đã vắt kiệt sức của các chiến sĩ.

Khi cảm nhận bài thơ Tây Tiến, ta thấy tuy vất vả là thế nhưng trên đỉnh núi cao họ vẫn giữ cho mình cái nhìn, cách nói hóm hỉnh, vui tươi của một tâm hồn trẻ trung: “súng ngửi trời”.

Sau những nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ là những đường nét thanh thoát, lãng mạn, mềm mại khắc họa rõ nét vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của núi rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Tiếp đến

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Các câu thơ với nhiều thanh bằng xoa dịu những khốc liệt gian lao đã trải qua. Từ đỉnh núi, ánh nhìn vươn dài theo cơn mưa rừng tận lại Pha Luông.

Không gian thơ mộng mở ra với những mái nhà thấp thoáng gợi tình cảm ấm áp, gần gũi, tiếp thêm sức mạnh cho người chiến sĩ sau chặng đường dài. Cách nói “mùa em” vừa nhẹ nhàng tình tứ vừa mới lạ, độc đáo.

Tâm hồn lãng mạn, tinh tế của người lính Tây Tiến đang hòa một nhịp với những sinh hoạt bình dị và tấm lòng hiếu khách đáng quý của người dân vùng cao dành cho chiến sĩ.

Những bữa cơm đầm tình nghĩa quân dân, những bát xôi nếp thơm nồng kỉ niệm khiến câu thơ cuối đoạn như một tiếng vọng da diết, khắc khoải của hoài niệm dấu yêu.

Kỉ niệm đẹp về tình quân dân cùng vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến, người đọc còn thấy nỗi nhớ ấy còn hướng về một đêm liên hoan văn nghệ say mê và hào hứng:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thường có những cuộc liên hoan văn nghệ diễn ra giữa bộ đội và nhân dân.

Họ ca hát để mừng chiến thắng, để đón quân mới hoặc để tiễn quân cũ ra đi. Đoạn thơ là hồi ức của tác giả về một đêm liên hoan văn nghệ ấm áp, vui vẻ giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào vùng Tây Bắc.

Câu thơ “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” miêu tả không khí vui tươi, nhộn nhịp đang diễn ra tại nơi ở của các chàng trai Tây Tiến. Từ “doanh trại” chỉ nơi đóng quân của binh đoàn.

Cụm tính từ “bừng lên” cho thấy ánh sáng đang rực rỡ, không khí trở nên rộn rã bởi tiếng nhạc, tiếng hát, tiếng cười nói vui đùa. “Hội đuốc hoa” là đốt đuốc sáng để sinh hoạt, ca hát, nhảy múa, vui chơi.

Như có một sức sống kỳ diệu đang thổi vào lều trại của bao chàng trai xa nhà, người lính Tây Tiến tạm gác lại những cuộc hành quân liên miên bất kể ngày đêm để hòa vào những giờ phút nhộn nhịp, sôi nổi bởi âm thanh và ánh sáng.

Dưới ánh sáng mờ ảo của những ngọn đuốc bập bùng, các anh đã phát hiện vẻ đẹp lung linh đến lạ lùng của các thiếu nữ vùng sơn cước: “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”.

Thán từ “kìa” vừa là lời chào đón, vừa nói lên sự ngạc nhiên, sung sướng của các chàng trai về vẻ đẹp kì lạ, lộng lẫy của các cô gái Tây Bắc.

Cảnh trong hoài niệm nhưng qua thán từ “kìa” trở nên sinh động như hiện thực đang diễn ra trước mắt.

Cụm từ “xiêm áo tự bao giờ” miêu tả vẻ đẹp rực rỡ, lạ thường về trang phục cũng như trang sức cổ truyền đậm sắc màu dân tộc của các thiếu nữ ấy và họ cũng hồi hộp cho buổi gặp gỡ nên đã chuẩn bị sẵn những bộ quần áo đẹp tự bao giờ.

Các cô gái không khác gì những cô dâu rạng rỡ trong ngày cưới của mình. Các chàng trai còn phát hiện nét đẹp đằm thắm dịu dàng của phương xa ở vũ điệu huyễn hoặc mê say qua câu thơ: “Khèn lên man điệu nàng e ấp”.

“Khèn” là nhạc cụ truyền thống của đồng bào Tây Bắc còn “man điệu” là điệu múa của họ. Khi tiếng khèn vang lên, các thiếu nữ lộng lẫy bởi “xiêm áo”, tình tứ mà đoan trang trong dáng điệu “e ấp” để rồi say đắm trong vũ khúc chơi vơi.

Từ “e ấp” càng toát lên vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng của các cô gái. Nét đẹp này càng làm các cô gái quyến rũ, tạo lực hút mạnh mẽ hơn trong mắt các chàng trai.

Những người lính Tây Tiến như những vị khách đa tình say mê trong tiếng nhạc réo rắt, trong điệu múa độc đáo và trong nét đẹp duyên dáng của phương xa.

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến, ta thấy câu thơ “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy” là hoài niệm về những con người hành quân lên Châu Mộc trong một buổi chiều sương.

Không gian trong ký ức là một buổi chiều mờ ảo giăng mắc sương sa. “Sương” là nét đẹp rất đặc trưng của núi rừng Tây Bắc: sương neo đậu trên từng nhành cây, ngọn cỏ; sương phủ khắp đỉnh đèo; sương giăng khắp lối.

Sương bàng bạc khắp không gian, cả đất trời Tây Bắc bao bọc trong màn sương dày đặc.

Và khi cảm nhận bài thơ Tây Tiến, người đọc cũng nhận thấy với tác giả, giữa người và cảnh vật Tây Bắc như có một mối liên kết vô hình.

Hai câu hỏi tu từ bắt đầu bằng “có thấy”, “có nhớ” đã vẽ ra một bức tranh về một miền sông suối không gập ghềnh mà man mác xa xăm, qua đó thể hiện một hoài niệm tinh tế mà sâu nặng, một tình yêu tha thiết với vùng đất mà người lính Tây Tiến đã một thời gắn bó.

Kỉ niệm đẹp về tình quân dân cùng vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
Kỉ niệm đẹp về tình quân dân cùng vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

Ngoại hình và vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùng”

Câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” có hai cách ngắt nhịp: Nếu là nhịp 4/3 thì cụm từ “Tây Tiến đoàn binh”

Được sử dụng biện pháp đảo ngữ vừa để nhấn mạnh vào hình ảnh người lính Tây Tiến vừa tạo âm điệu hùng hồn, rắn rỏi, chứa đầy niềm tự hào của người đại đội trưởng Quang Dũng về đoàn quân nổi tiếng lẫy lừng xông xáo và hăng hái.

Nếu hiểu theo cách ngắt nhịp 2/2/3 thì “Tây Tiến” là hô ngữ, phần còn lại là cụm chủ vị. Hô ngữ ấy là tiếng gọi thiết tha, da diết của nhà thơ về nỗi nhớ anh em, đồng đội đã một thời chung lưng đấu cật, tay súng, tay gươm.

Khi cảm nhận bài thơ Tây Tiến, ta thấy tác giả dùng từ “đoàn binh” chứ không dùng từ “đoàn quân” vừa giúp lạ hóa câu chữ, vừa tạo âm điệu hùng tráng làm tăng sức hấp dẫn cho bài thơ, đồng thời lại giúp khắc họa tính cách mạnh mẽ của người lính Tây Tiến.

Ngoại hình độc đáo của những chàng trai được gợi lên qua những hình ảnh: “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm”, “mắt trừng”.

Cụm từ “quân xanh màu lá” đã  miêu tả những thân hình cường tráng giờ trở nên tiều tụy, xanh xao, hốc hác, vàng vọt vì thiếu thuốc men, lương thực… Nhưng cũng có người cho rằng các anh ngụy trang bằng lá cây xanh để dễ bề chiến đấu.

Hiểu theo nghĩa này thì hình ảnh những người chiến binh ấy bỗng nhiên hòa màu sắc của cây rừng để trở thành hiện thân của sự lớn lao, bất tử.

Hai hình ảnh vừa nói tới hiện thực cuộc chiến đấu với hiện thực cuộc chiến đấu với những bệnh tật, thiếu lương thực, thuốc men, với cuộc chiến đấu đầy hy sinh gian khổ vừa ca ngợi tinh thần quyết chiến của những người lính Tây Tiến.

Tuy nhiên, vẻ ốm yếu, nhợt nhạt ở ngoại hình không che được tư thế oai phong lẫm liệt, hùng dũng của các anh.

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến để thấy hình ảnh ẩn dụ “dữ oai hùm” đã miêu tả các anh giống chúa sơn lâm – hùm thiêng dữ dằn oai linh nơi rừng thẳm.

Và cách nói phóng đại trong cụm từ “mắt trừng” cho thấy cái nhìn trừng trợn, quắc thước hiên ngang của các chiến binh ném vào kẻ thù làm cho bọn chúng phải kinh hồn, bạt vía.

Chí nguyện của người lính đã thể hiện ngay tư thế và ánh mắt. Gian khổ là thế, ác liệt là thế nhưng những chàng trai vẫn mộng mơ, lãng mạn.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cụm từ “gửi mộng qua biên giới” là nói đến giấc mộng diệt thù, đánh tan lũ xâm lăng, lập nhiều chiến công của đoàn quân Tây Tiên.

Giấc mộng ấy sẽ vượt “qua biên giới” để ngày mai nước bạn Lào sạch bóng quân thù, độc lập tự do. Mong manh giữa sự sống và cái chết nhưng các anh vẫn giữ trong tim hình ảnh Hà thành thân thương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến để thấy những người lính còn có những giây phút mộng mơ. “Mơ Hà Nội” là nỗi nhớ về vùng đất kinh thành Thăng Long nghìn năm văn vật gắn với niềm tự hào của của biết bao người con đất Việt.

Đó là nỗi nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, là nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng yêu thương.

Những câu thơ ấy vừa thể hiện tâm hồn hào hoa, đa tình và nhiệt huyết sôi nổi của tuổi trẻ vừa diễn tả một tình cảm yêu nước thiết tha sâu lắng của người lính trong thời kỳ chống Pháp lúc bấy giờ.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Không chỉ nhớ về cuộc sống chiến đấu gian khổ và vẻ đẹp hào hoa lãng mạn bay bổng trong tâm hồn người lính vệ quốc mà Quang Dũng còn dựng lên bức tượng đài về vẻ đẹp hy sinh của các anh.

“Rải rác” nghĩa là không nhiều; hình ảnh “biên cương” gợi về một vùng biên ải xa xôi, heo hút, thăm thẳm chỉ có núi và rừng.

Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” dùng biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh vào những nấm mộ thưa thớt trên dặm dài hành quân nơi rừng hoang vắng lặng.

Khi cảm nhận bài thơ Tây Tiến, ta thấy bằng cách nói lấy ít gợi nhiều, tác giả đã mô tả một sự thật khốc liệt về những nấm mồ xa xứ sẽ mãi mãi nằm trong cái heo hút hoang vắng của rừng núi, của biên cương viễn xứ xa xôi.

Người Việt thường quan niệm: sống tha phương cầu thực, đất khách quê người nhưng khi chết ai cũng mong gửi nắm xương tàn về nơi cố quận, chôn nhau cắt rốn.

Nhưng với người lính Tây Tiến điều đó là không thể, bởi hoàn cảnh chiến tranh, bởi xa xôi cách trở, bởi hiểm nguy rừng rập.

Điều đáng nói là cái chết của người đi trước không hề làm người đi sau nhụt chí hay chùn bước, họ chôn cất đồng đội rồi vững bước tiến lên trong tư thế “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Hình ảnh “chiến trường” gợi cảnh bom đạn chết chóc, máu chảy đầu rơi, thịt phơi nội cỏ nhưng đó lại là nơi mà người lính quyết hiến dâng “đời xanh” của mình.

“Đời xanh” chính là tuổi trẻ mà tuổi trẻ là độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời mỗi con người, không gì quý hơn đời xanh, không gì quý hơn tuổi trẻ.

Nhưng khi cảm nhận bài thơ Tây Tiến, ta thấy những chiến binh Tây Tiến vẫn còn một thứ quý hơn đời xanh, vẫn còn một thứ quý hơn tuổi trẻ đó chính là lý tưởng sống.

Vì vậy, các anh quyết có mặt nơi chiến trường để thực hiện bằng được lý tưởng mà mình đã chọn: “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Cụm từ phủ định “chẳng tiếc đời xanh” thể hiện ý chí ngoan cường của người lính quyết xông pha nơi trận mạc để trả thù đền nợ nước.

Câu thơ “Áo bào thay chiếu anh về đất” miêu tả sự hy sinh của những người lính Tây Tiến. “Áo bào” là áo khoác ngoài của các vị tướng ngày xưa mặc khi xông trận.

Mỗi khi khoác chiến bào là họ chấp nhận cảnh da ngựa bọc thây, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Với hình ảnh này, tác giả vừa nói lên hiện thực gian khổ của cuộc kháng chiến, vừa ca ngợi sự hy sinh của các anh như những đấng trượng phu tráng sĩ xa xưa.

Và khi cảm nhận bài thơ Tây Tiến, ta còn thấy Quang Dũng đề cập tới cái chết của chiến binh Tây Tiến bằng biện pháp nói giảm nói tránh trong cụm từ “về đất”. Cách nói này vừa để giảm bớt sự bi lụy vưa ca ngợi sự hy sinh thanh thản, nhẹ nhàng của các anh.

Lời ước hẹn cùng tình cảm gửi gắm của tác giả với Tây Tiến

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến để thấy những tình cảm và ước hẹn gửi gắm của những người chiến sĩ:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Câu thơ đã miêu tả vẻ đẹp về tinh thần chiến đấu và sống hết mình cho lý tưởng của những chàng chiến binh Tây Tiến.

Nét đẹp tinh thần của người lính Tây Tiến càng được khẳng định trong khổ thơ cuối cùng – khổ thơ kết tinh và nâng cao những cảm xúc, tình cảm của cả bài.

Lí tưởng mùa xuân ấy chưa thực hiện được, nay quyết tâm thực hiện trọn vẹn đến cùng. Dẫu còn nhiều vất vả, gian lao.

Dẫu còn bao khó khăn thử thách: “đường lên thăm thẳm”, “chia phôi”, nhưng vẫn cháy mãi một khát vọng sống và chiến đấu, vẫn nêu bật một tinh thần quyết tâm ra đi không hẹn ngày về: “Người đi không hẹn ước”.

Nhận xét khi cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến sẽ thấy Quang Dũng như đã hóa thân vào nhân vật trữ tình để bày tỏ cái tôi đầy xúc cảm khi nhắc về đoàn quân Tây Tiến. Giọng thơ vẫn toát lên âm hưởng hào hùng dù có thoáng man mác buồn pha lẫn chút bâng khuâng.

Người lính Tây Tiến trong cái nhìn của Quang Dũng vừa mang vẻ đẹp hào hùng vừa bi tráng. Một ngoại hình độc đáo không lẫn lộn với bất kỳ ai “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” không chỉ hiện lên với sự anh dũng, hy sinh mà còn mang những vẻ đẹp rất riêng của các chàng trai Hà Thành.

Kết bài: Bài thơ Tây Tiến đã tái hiện một thời đại hào hùng với những con người hào hùng. Người lính Tây Tiến được tái hiện với một không gian và thời gian vời vợi trong thương nhớ từ xa xôi nhưng bỗng hóa như thật gần.

Cứ thế, hình tượng về người lính Tây Tiến sống mãi trong lòng người đọc bao thế hệ. Cảm nhận bài thơ Tây Tiến khiến mỗi chúng ta thêm yêu tổ quốc cũng như trân trọng hơn sự hi sinh của những người chiến sĩ trong những năm tháng hào hùng ấy.

Nhận xét khi cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nhận xét khi cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Dàn ý cảm nhận bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng

Để có thể khái quát và hệ thống hóa kiến thức của tác phẩm, các em cần nắm được dàn ý cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng như sau.

Mở bài cảm nhận bài thơ Tây Tiến

  • Giới thiệu những nét tiêu biểu về nhà thơ Quang Dũng và đặc trưng thơ ca của ông (mang tính chất vừa hồn nhiên vừa tinh tế với vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng và đậm chất lãng mạn).
  • Khái quát về bài thơ Tây Tiến: hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và nghệ thuật nổi bật của bài thơ.

Thân bài cảm nhận bài thơ Tây Tiến

  • Bước đường hành quân gian khổ giữa thiên nhiên Tây Bắc.
  • Kỉ niệm đẹp về tình quân dân cùng vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc.
  • Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ hiện lên hào hùng thơ mộng.
  • Tình cảm cùng lời ước hẹn gửi gắm của tác giả với Tây Tiến.

Kết bài cảm nhận bài thơ Tây Tiến

  • Tổng kết lại giá trị nghệ thuật: Nhà thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ cùng với hình ảnh thơ độc đáo.
  • Khái quát lại giá trị nội dung: “Tây Tiến” đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh đó còn là hình tượng người lính kiên cường, dũng cảm, không ngại hi sinh nhưng cũng vô cùng lãng mạn.

Xem thêm:

Như vậy, Tây Tiến của Quang Dũng đã để lại những ấn tượng khó quên trong lòng độc giả chính bởi cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng của bài thơ. Với cảm hứng chân thực từ những kí ức mà nhà thơ đã trải qua cùng với ngòi bút tài hoa đã giúp tái hiện hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa giản dị, hồn hậu lại vô cùng hiên ngang, khí phách. Hy vọng bài viết về chủ đề cảm nhận bài thơ Tây Tiến đã cung cấp cho bạn những kiến thức hữu ích. Chúc bạn luôn học tốt!

Bạn thấy bài viết này hữu ích chứ?

Hãy chọn vào ngôi sao để đánh giá bài viết

Đánh giá trung bình 0 / 5. Lượt đánh giá 0

Hãy là người đầu tiên đánh giá bài viết

Hãy để lại bình luận

Xem nhiều

Bài tin liên quan

Mạng 5G là gì? Mạng 5G khi nào phủ sóng toàn quốc?

Mạng 5G là bước tiến vượt bậc trong công...

Mạng 4G là gì? Có nhanh không? 4G và LTE khác gì nhau?

Mạng 4G, ra đời vào năm 2010, là thế...

3G là gì? Tốc độ của mạng 3G là bao nhiêu? Khác gì với 2G và 4G

Mạng 3G, ra đời vào đầu những năm 2000,...

Mạng 2G là gì? Tại sao cắt mạng 2G? Khi nào cắt?

Mạng 2G, công nghệ di động phổ biến từ...